* Hàn môn ở đâu ?.
Cái vũng nước mặn sâu hoắm, rộng thình nằm về phía Đông Bắc thành phố Đà Nẵng (cổ), có núi Hải Vân, bán đảo Sơn Trà, hòn Hành, hòn Chảo che chắn gió biển phía ngoài. Còn phía trong thì có con đường Nguyễn Tất Thành chạy ôm sát bờ, tạo thành một dải phân cách giữa đất liền với nước. Với khoảnh trời biển chừng ấy mà mang nhiều cái tên, bao gồm tên ta, tên Tây, tên Tàu tưởng chừng như đã kỉ lục thế giới về số tên gọi ! đó là: Vũng Thùng, Đồng Long Loan, Vịnh Sơn Trà, Vịnh Đà Nẵng, Đà Nẵng Hải môn, Cửa biển Đà Nẵng, Đà Nẵng Hải tấn, Hàn Hải tấn, Hàn cảng, Kénan, Touron, Tou Nang, Hiện cảng, Cửa Hàn, Hàn môn, … còn cửa biển Đại Chiêm môn, tuy ở gần cảng Hàn môn nhưng thuộc về thừa tuyên Quảng Nam nên không có tên trong phần này.
* Tại sao có mỗi chữ “Hàn” mà nhiều người giải nghĩa khác nhau?
Trong Hán Việt tự điển của nhiều tác giả, tính chung chung thì có độ 10 “chữ Hàn”, nhưng mỗi chữ khác nhau về bộ thủ, về tự dạng (mặt chữ), về tổng số nét. Dĩ nhiên cái nghĩa đen của mỗi chữ phải khác xa nhau.
Như:
- Chữ Hàn bộ thuỷ (19 nét) 瀚 nghĩa là rộng lớn, bao la mênh mông bát ngát.
- Chữ Hàn bộ vi (18 nét)韓nghĩa là nước Hàn ở Trung Quốc thời Đông Chu xưa.
- Chữ Hàn bộ vũ (16 nét)翰 nghĩa là lông cánh chim, hàn lâm.
- Chữ Hàn bộ miên (12 nét)寒nghĩa là lạnh lẽo, hàn sĩ.
- Chữ Hàn bộ Kim 釬 hoặc銲nghĩa là hàn các kim loại lại cho dính liền lại với nhau. Thuốc hàn.
- Chữ Hàn bộ thuỷ nhưng ít nét (6 nét) 汗nghĩa là mồ hôi.
Chính là do nhiều chữ Hàn như vậy nên các cụ giải nghĩa theo chữ Hàn quen thuộc của mình, để cái nghĩa khác xa với chữ Hàn đối tượng瀚, một lý do khác nữa là chữ Hàn bộ thuỷ thuộc loại cá biệt tức là không thuộc diện phổ thông trên văn thư sử dụng hằng ngày nên các cụ thấy lạ lẫm.
Ngày nay đi tìm chữ Hàn bộ thuỷ trong thư tịch cổ thì thấy khó. Bởi vì những sách in trước 1945 có lồng chữ Hán thì rất khó tìm. Những sách in từ 1945 đến 1975 hoặc in đến năm 1995 thì phần nhiều đều không có chữ Hán, hoặc có nhưng không thuộc diện mình tìm.
Tuy nhiên vẫn còn thấy chữ Hàn bộ thuỷ này trong sách Đại Nam nhất thống chí, sách Phủ Biên Tạp Lục, sách Hoà Vang Huyện Chí. Điều đặc biệt Hoà Vang Huyện Chí là sách trong nhà chủ của Sông Hàn, do tú tài Trần Nhật Tỉnh viết ra năm Tự Đức thứ 21 (1868). Đến năm Thành Thái thứ 17 (Ất Tỵ niên -1905) thì người cháu ngoại là Đỗ Thúc Nguyên沅chứ không phải Trầm沈đã sao chép tay thành sách. Đây là quyển gốc, còn y dấu chấm, dấu móc, bằng son đỏ, hiện Bảo Tàng Đà Nẵng đang lưu giữ. Tú tài Trần Nhật Tỉnh người ở làng Quan Nam nay thuộc xã Hoà Liên huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng, theo sách này ghi thì ông thi hương 4 khoa năm Canh Tuất (1850). Năm Nhâm Tý (1852), Ất Mão (1855), Mậu Ngọ (1858). Cả 4 khoa đều đỗ Tú tài (chớ không đỗ cử nhân để làm quan. Về sau ông được bộ Lễ giao chỉnh sửa và bổ sung quyển 13 trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí ).
*Khởi nguồn sông Hàn
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí viết về sông Cẩm Lệ (và sông Hàn) thì dòng sông này có hai nguồn. Nguồn thứ nhất xuất phát từ núi Kiền Kiền rồi chảy ra xứ nguồn Lỗ Đông làm sông Lỗ Đông. Nguồn thứ hai phát xuất từ núi Vịnh Phàm rồi cũng chảy ngang xứ nguồn Lỗ Đông làm sông Vịnh Phàm, rồi chảy qua xã Hội Thành, rồi đến thôn Đông Cao thì hai nguồn hợp nhau với nhánh sông kia. Từ đây sông chảy 17 dặm về phía Đông thì đến làng Bồ Bản. Nơi đây có dòng sông Thạch Bồ (còn gọi sông Yên) nhập vào, lại chảy xuống phía Đông 5 dặm nữa đến xã Cẩm Lệ để làm sông Cẩm Lệ. Lại chảy chừng 7 dặm nữa qua xã Hoá Khuê Trung (nay Phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ) và xã Hoá Khuê Tây làm thành sông Hàn chữ nôm viết là滝瀚 mà chữ Hán viết Hàn Giang瀚江.
Cũng theo Đại Nam Nhất thống chí, đổ vào hạ lưu sông Cẩm Lệ có sông Cổ Mân, dân gian gọi là sông Cái, nối từ hạ lưu sông Vĩnh Điện đi qua làng Cổ Mân, nay thuộc phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ. Như vậy, ở ngã ba sông này là chính là nơi bắt đầu của sông Hàn và kết thúc tại cửa biển Đà Nẵng.